BẢN VĂN TẾ LỄ HỘI LẠP LÀNG THANH THỦY THƯỢNG.
Ngày 19.8.2014 nhận được thông tin về lễ Đặt đá xây dựng Đình Môn làng TTT được đăng tải trên Website thanhthuythuong.com - lúc này Lương y Lê Quý Ngưu đang công tác tại miền Nam – đã phấn khởi báo tin ông nội là cố Tộc trưởng Lê Quý Giác lúc sinh thời là thành viên trong Ban Khánh tiết làng Thanh Thủy Thượng còn lưu giữ quyển Văn tế lễ Hội lạp làng TTT.
Quyển Văn tế có 3 nội dung: Tiến trình các bước tiến hành nghi lễ tại Đình Môn (cũng giống nghi lễ làng đang sử dụng trong các lễ Thu tế, Xuân tế ), bản Văn tế Cô hồn và Văn tế Đình Môn:
Văn tế Cô Hồn
Tiết giêng hai mưa dầm sùi sụt,
Lọt hơi may lạnh buốt xương khô,
Não người thay bấy chiều thu,
Ngàn lau khảm bạc giếng ngô rụng vàng,
Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Ngọn đường lê lác đác mưa sa,
Lòng nào mà chẳng thiết tha,
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Xót khôn thiêng phảng phất u minh,
Thương thay thập loại chúng sinh,
Phách đơn hồn chiếc linh đinh quê người,
Hương khói đã không nơi nương tựa,
Phận mồ côi lần lữa đêm đen,
Còn chi ai quý ai hèn!
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu!
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát,
Nước tĩnh bình rưới khắp dương chi,
Muôn nhờ Đức Phật từ bi,
Giải oan cứu khổ hồn về Tây phương.
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,
Chí những lăm cướp gánh non sông,
Nói chi những buổi tranh hùng,
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau.
Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở,
Khôn đem mình làm đứa sất phu,
Giàu sang càng nặng oán thù,
Máu tươi lai láng, xương khô rã rời,
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu kêu khóc đêm mưa,
Cho hay thành bại là cơ,
Mà oan hồn biết bao giờ cho tan!
Nào những kẻ màn loan trướng huệ,
Những cậy mình cung quế hằng nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới cầu nước chảy,
Phận đã đành trâm gãy bình rơi,
Khi sao đông đúc vui cười,
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn nhẽ không hương, không khói,
Hồn ngẩn ngơ bãi cói rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm,
Càng năm càng héo, càng đêm càng rầu.
Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngòi bút son thác sống ở tay,
Kinh luân chất một túi đầy,
Đã đêm Quản, Cát lại ngày Y, Chu.
Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm,
Trăm loài ma xắm nắm chung quanh,
Nghìn vàng khôn đổi được mình,
Lầu ca, viện hát tan tành còn đâu!
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước,
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
Cô hồn thất thểu dọc ngang,
Nặng oan, khôn lẽ tìm đường hoá sinh.
Nọ những kẻ bài binh bố trận,
Xông mình vào cướp ấn nguyên nhung,
Gió mưa sấm sét đùng đùng,
Phơi thây trăm họ làm công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc,
Bãi sa trường thịt nát máu rơi,
Bơ vơ góc bể chân trời,
Nắm xương vô định biết vùi nơi đâu?
Trời thăm thẳm mưa gào gió thét,
Khí âm ngừng mờ mịt trước sau,
Ngàn cây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
Cũng có kẻ tính đường trí phú,
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn,
Ruột rà không kẻ chí thân,
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ,
Của phù vân dẫu có như không,
Sống thời tiền chảy bạc ròng,
Thác không đem được một đồng nào đi!
Khóc ma mướn thương gì hàng xóm,
Hòm gỗ đa bó đòm đưa đêm,
Ngẩn ngơ trong quãng đồng chiêm,
Nén hương, giọt nước biết tìm vào đâu?
Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý,
Dấn mình vào thành thị lân la,
Mấy thu lìa cửa lìa nhà,
Văn chương chắc đã đâu mà trí thân?
Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng,
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng,
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng,
Anh em: thiên hạ, láng giềng: người dưng.
Bóng phần tử xa chừng hương khúc,
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang,
Cô hồn nhờ gởi tha phương,
Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.
Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Căng buồm nâu chạy xế gió đông,
Gặp cơn giông tố giữa dòng,
Đem thân vùi dập vào lòng kình nghê.
Cũng có kẻ đi về buôn bán,
Đòn gánh tre chín dạn hai vai,
Gặp cơn mưa nắng giữa trời,
Hồn phách đường sá lạc loài nơi nao?
Cũng có kẻ mắc vào việc lính,
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,
Nước khe cơm ống gian nan,
Dãi dầu nghìn dặm, lầm than một đời.
Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành đạn lạc tên rơi,
Lập loè ngọn lửa ma trơi,
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.
Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp,
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,
Ngẩn ngơ khi trở về già,
Ai chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não,
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,
Dõi tháng ngày hành khuất ngược xuôi,
Thương thay cũng một kiếp người,
Sống nhờ hàng xứ chết vùi đường quan.
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc,
Gởi mình vào chiếu rách một manh,
Nắm xương chôn rấp góc thành,
Kiếp nào cỡi được oan tình ấy đi?
Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé,
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha,
Lấy ai bồng bế vào ra,
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
Kìa những kẻ trôi sông lạc suối,
Cũng có người sẩy cối sa cây,
Có người leo giếng đứt dây,
Người trôi trước lũ, kẻ lây cháy thành,
Người thì mắc sơn tinh thuỷ quái,
Người thì sa răng khái ngà voi,
Có người có đẻ không nuôi,
Có người sa sẩy, có người vong thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước,
Cầu Nại hà kẻ trước người sau,
Mỗi người một nghiệp khác nhau,
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi,
Hoặc là nương ngọn suối chân mây,
Hoặc là bụi cỏ bóng cây,
Hoặc là quán nọ cây này bơ vơ,
Hoặc là nương thần từ, Phật tự,
Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông,
Hoặc là trong quãng đồng không,
Hoặc nơi gò đống hoặc vùng lau tre.
Sống đã chịu nhiều bề thảm thiết,
Ruột héo khô dạ rét căm căm,
Dãi dầu trong mấy mươi năm,
Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương.
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn,
Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra,
Lôi thôi bồng trẻ dắt già,
Có khôn thiêng hãy lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ,
Phóng hào quang cứu khổ độ u,
Rắp toà tứ hải quần chu,
Não phiền rửa sạch, oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại,
Chuyển pháp luân tam giới thập phương.
Nhớn nhơ Tiêu Diện đại vương,
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh,
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao,
Mười loài là những loài nào,
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh,
Có chữ rằng: "Vạn cảnh giai không",
Ai ơi lấy Phật làm lòng,
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo,
Của có chi bát cháo nén nhang,
Gọi là manh áo thoi vàng,
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đấy dưới trên ngồi lại,
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu.
Phép thiêng biến ít thành nhiều,
Trên nhờ Tôn giả chia đều chúng sinh.
Phật hữu tình từ bi phổ độ,
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng,
Nam mô nhất thiết siêu thăng thượng đài.
Bản Văn Tế Đình Môn viết bằng chữ Nôm, Lương y Lê Quý Ngưu đã đánh máy lại Bản mới : chữ Nôm có âm chữ Việt sau đó có gửi mail cho chúng tôi nhưng máy của tôi và Phùng Giáo chỉ đọc được chữ Hán, không có phần mềm chữ Nôm. Lương y Lê Quý Ngưu đã làm lại một bản có hình thức như một tờ Sớ : gồm chữ Nôm và chữ Việt, sau đó dã in một bản chính gửi về Ban Khánh tiết làng.
VĂN TẾ ĐÌNH MÔN
Duy,
Việt Nam Quốc, tuế thứ niên nguyệt kiến sóc việt .
Thừa Thiên Thuận Hóa tỉnh, Thủy Dương phường, Thanh Thủy Thượng hương.
Cẩn úy tế chủ đồng bổn xã quốc nội tịnh cư,quốc ngoại đại tiểu đẳng tư nhơn tế lễ kỳ an, kỳ ngư, kỳ tài, kỳ phước tịnh hiến cúng âm binh cô hồn liệt vị, nguyện cầu âm siêu dương thái sự.
Cẩn dĩ kim ngân hương đăng trầm trà thứ phẩm phi bạt chi nghi
Cẩn cáo vu : Hòa ông đại thánh Khương phụ tiên sinh, Ốc Tiêu sơn hà Tiêu Diện đại sĩ Diệm khẩu quỹ vương tôn thần, Đương Niên hành khiển đại vương tôn thần, Thái Tuế Chi Đức tôn thần, Tả Ngưu Đầu hữu Mã Diện nhị vị Đại tướng quân. Đương Cảnh Thổ Địa chánh thần. Âm Dương lưỡng giới thông minh đệ hồn sứ giả. Phụng vị Bổn xã bổn thôn bổn phường bổn xứ Âm linh cô hồn cô mộ liệt vị. Phụng vị tiền hậu chiến tranh quan tướng lại, binh sĩ tốt, nhân dân nạn vong, oan hồn uổng tử nam nữ chư thương vong liệt vị. Phụng vị bổn xứ bổn cảnh phục thi tân tử cựu vong nhất thế thệ phách u hồn liệt vị, cập chư nghiệp loại cô hồn liệt vị .Đồng lai phối hưởng.
Viết,
Hởi ôi, khói hương tỏa nguồn đào mây tuôn núi quế , chim kêu heo hút đường u minh khốn tỏ nổi nguồn cơn, để thảm ve sầu cửa họa khốn trông, bề cội rễ ai cũng muốn dông dài họ lớn, để trăm năm chi vĩnh thế trường niên, ai không trông con một cháu bầy để ngàn thu đặng thâm căn cố đế.
Cõi trần thế hợp tan khó hẹn, dễ biết đâu cao nấm ấm mồ, số Thiên Tào mạng định há xây nở há trách căn duyên số hệ. Đã biết câu tử sanh hữu mạng trong chín phận trời, ai khỏi lưới tuyết sương dẫu cười câu vinh nhục, vô y sầu muôn kiếp, vậy nên câu âm ế xót là xót hồn về cỏi thảm, để trăm năm không con nối cháu truyền.Thương là thương tiếng để non xanh bốn bể những người thương kẻ nể. Đốt mấy nén hương nghĩa chúc biểu tâm tình dông lý tri ân, dâng ba tuần rượu thô sơ nguyện bổn thường niên chiếu lệ đói ăn khát uống mừng nồng bày bố tế đơm sống khôn thác thiêng xin Ngài phò hộ cho đất nước trường tồn, lạy chúng đẳng cô hồn giúp đỡ bền vững.
Phục duy thượng hưởng.
Cẩn cáo.
Nhận được bản Văn tế Đình Môn do Lương y Lê Quý Ngưu gửi về, Ban khánh tiết làng rất phấn khởi vì các bản này không còn được lưu giữ tại đình làng. Ban Khánh tiết làng ghi nhận công đức của Lương y Lê Quý Ngưu đã có công lưu giữ, dịch thuật, in ấn bản Văn tế Đình Môn với hình thức văn sớ, thuận tiện cho việc sử dụng hành năm.
Ban khánh tiết làng cũng thông báo đến ngày 21.10.2014 dân làng và các doanh nghiệp trên địa bàn Thủy Dương đã tích cực đóng góp để xây dựng Đình Môn số tiền hơn 368 triệu đồng. Tiêu biểu : Ô. Lê Thúc Hóa 30 triệu, Hoàng Trọng Nhất 30 triệu, Hoàng Thám 25 triệu, Ngô Xuân Hải 10 triệu, Lê Viết Phương 1 triệu, Nguyễn Thanh Phước 1 triệu, Thầy Thanh Phước ( chùa Thanh Lam) 1 triệu, Nguyễn Thanh Minh 1 triệu, Lê Quý Quýnh 1 triệu, Lê Viết Sanh 1 triệu, Lê Bá Bánh 1 triệu…
Công việc tiếp theo là xây tường rào, các trụ đăng, nhà tứ giác thờ ngài Tiêu Diện, gạch lát sân…nhưng kinh phí còn khó khăn. UBMTTQ phường, Ban Khánh tiết và Thập nhị Tộc trưởng kêu gọi con dân làng tiếp tục đóng góp để công trình tâm linh hoàn thành mỹ mãn.
Nguyên Tri NGÔ VĂN PHỐ
0 Comments:
Post a Comment