THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA NGÀI THỦY TỔ KHAI CANH
HỌ NGÔ THANH THỦY
Ngài Ngô Lực tự Minh Triết:
Sinh khoảng năm 1539
Tạ thế ngày 12.5.năm Đinh Sửu Niên hiệu Gia Thái thứ 5 (1577)
Húy
kỵ ngài vào ngày 11, 12.5 ÂL hàng năm.
Cha
là Ngô Phủ Quân ( Ngô Thù ) Bổn Thổ Thành Hoàng làng Phù Bài.
Mẹ
là bà Triệu Thị Mai.
I.THÂN THẾ - DÒNG TỘC
Ngài
Ngô Phủ Quân : Tiền Khai Khẩn Bổn Thổ Thành Hoàng làng
Phù Bài, Húy Thụ tự Thù
Dòng dõi của Ngài Ngô Thù vốn gốc ở Bột Hải
quận (nay là tỉnh Sơn Đông ) dưới triều nhà Minh (1368-1644 ). Tổ tiên của Ngài
Ngô Thù là một đạo sĩ Lão giáo thiền sư có tài kỳ môn độn giáp, pháp thuật thần
thông. Ngài Tổ làm quan ở Đạo Kỳ ty triều nhà Minh, phụng mệnh làm Khâm sai
giáo sĩ sang đất Việt để truyền Đạo giáo.
Gia phả họ Ngô Phú Bài : “Thời
kỳ nội thuộc nhà Minh cai trị, từ năm 1414 đến1427 vua triều Minh ban chỉ
truyền mở mang Nho học sang Đất Việt, lấy Tứ thư Lục kinh, bộ Tinh lý Đại toàn
đưa sang ban cấp cho người Việt ở các phủ, châu, huyện…
Căn
cứ vào lịch sử thì ngài Bổn Thổ thành hoàng làng Phù Bài là dòng họ Ngô húy Thụ
tự Thù. Ngài vốn dòng dõi Trung Quốc dưới triều nhà Minh. Tổ của Ngài là một
đạo sĩ Lão giáo thiền sư, có tài kỳ môn
độn giáp,vạn pháp quy tôn, pháp thuật thần thông ngũ trí, tài năng hoán bổ lục
thao. Ngài làm quan ở Đạo Kỳ ty triều nhà Minh, phụng mệnh làm Khâm sai giáo sĩ
sang đất Việt để truyền Đạo giáo..”
Cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn thắng lợi (1418-1427) Lê Lợi đã thế đức hiếu sinh cấp gạo thuyền
cho quân Minh rút về nước(23.12.1427). Gia đình ngài Ngô Thù chỉ là giáo sĩ
sang truyền đạo vì thế đã quyết định ở lại cư trú tại xứ Đường Lâm, quê hương
của Ngô Quyền.
Gia phả họ Ngô Thanh Thủy: “Nguồn
gốc ngài Thái tổ (Ngài Ngô Thù) quê ở Trung Quốc tại xứ Minh Châu, lạc đạo giáo
vãng cư Việt địa, Băc Ninh tỉnh, Đường Lâm xứ, đời Quang Thuận Lê Thánh
Tông 1460 Hậu lê”
Sống ở Đường Lâm (nay thuộc Ba Vì,Hà Tây), qua
một thời gian dài, đến đầu thế kỷ XVI, gia đình ngài Ngô Thù đã trở thành người
Việt chính thống.Vì thế, khi ngài Ngô Thù sinh (13.4 năm Nhâm Tuất 1502) Gia phả họ Ngô Lang Xá ghi:
“Nguyên hệ xuất Bột Hải quận, tính Ngô, Đường Lâm nhân, thuộc Bắc Ninh tỉnh”
Được tiếp thu sở học của ông cha, ngài Ngô
Thù đã trở thành một đạo sĩ Lão giáo thiền sư tài giỏi. Ngài tham gia quân đội
và trở thành một võ tướng chỉ huy đội quân tinh nhuệ dưới tướng Nguyễn Kim.
Năm 1527 Mạc Đăng Dung truất phế vua Lê, thành
lập nhà Mạc. Nguyễn Kim giương cao lá cờ Phù Lê diệt Mạc, lập Nam triều ở Thanh
Hóa. Gia đình ngài Ngô Thù chuyển về cư trú ở Thanh Hóa.
Gia phả họ Ngô Lang Xá : “Lê Trang
Tông hữu niên giám, tỵ Mạc chi loạn, cư Thanh Hóa”
Sau năm 1527 khi ở Thanh Hóa Ngài Ngô Thù đã
có hai phu nhân : Đệ nhất phu nhân: Bà
Lê Thị Thị sinh hạ một ái nữ. Đệ nhị phu nhân: Bà Triệu Thị Mai hạ sanh được
tam lang. Căn cứ vào năm sinh của ngài Ngô Điêu 1542 thì các con của ngài Ngô
Thù đều sinh ra ở Thanh Hóa :
Bà chị đầu Ngô Thị Cừ
sinh khoảng 1530. (Sau này kết hôn với ngài thủy tổ họ Lê Phù Bài là ngài Lê
Ngọc Hiền)
Anh
trai đầu Ngô Tôi tự Dao sinh
1536
Ngô Lực tự Minh Triết sinh 1539.
Ngô Điêu là con trai
út sinh 1542.
Đến giữa thế kỷ XVI dưới thời Hậu Lê, nội bộ
triều đình từ khi Nguyễn Kim chết đã nãy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai dòng
họ đang tôn thờ vua Lê. Trước tình hình đó, được sự tư vấn của Nguyễn Bỉnh
Khiêm :
“Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân “.
(Hoành sơn một dãy, dung thân muôn đời )
Nguyễn Hoàng đã vận động xin vào trấn thủ đất
Thuận Hóa để tránh âm mưu sát hại của Trịnh Kiểm và lo xây dựng lực lượng lâu
dài về sau.
Tháng 10 năm 1558 Nguyễn Hoàng nhận cờ Tiết
chế vào trấn thủ Thuận Hóa lúc 34 tuổi. Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa đã đem theo những
người thân tín tài giỏi, là những thành phần nòng cốt của mình, trong đó có gia
đình ngài võ tướng tâm phúc Ngô Thù.
Tộc sử họ Ngô Việt Nam “Những
người họ Ngô thiên cư theo Nguyễn Hoàng vào Quảng Trị, Thừa Thiên nay có trên
30 Họ, nhiều nhất là ở Huế và vùng lân cận.”
Gia phả họ Ngô Lang Xá của Ngô
viết Hòa ( viết vào năm 1662):“Kỳ
thời thống tướng Trịnh Kiểm ngôn vu đế, Lê đế chuẩn, Thái Tổ phân binh ngự Mạc,
sở hướng khắc tiệp, dự hữu chiến công. Cập Mạc thối suy, công tại Thuận Hóa, hỹ
kiến thử thổ địa sơn xuất hình thắng”
Dịch: Lúc
bấy giờ thống tướng Trịnh Kiểm nói với vua cho Thái Tổ ( Nguyễn Hoàng ) vào trấn thủ Thuận
Hóa. Ông ( Ngô Thù ) theoThái Tổ phân binh đánh Mạc, đánh đâu thắng đó, lập
nhiều chiến công. Sau ngày Mạc bại ông thấy ở Thuận Hóa đât đai rộng rãi phì
nhiêu…
Đến Thuận Hóa, ngài võ tướng Ngô Thù được
được phân công chỉ huy đồn An Nông, một chốt tiền tiêu bảo vệ thủ phủ Thuận
Hóa.
Sau khi xây dựng đồn An Nông, bố trí lực
lượng đề phòng giặc Chiêm Thành ở phía Nam, ngài Ngô Thù chiêu dân khai hoang
lập làng. Ngài đã cùng nông dân khai hoang một vùng đất rộng lớn từ An Cựu cho
đến Phú Bài:
Phía
đông giáp sông Đại Giang và đầm Hà Trung
Phía
bắc giáp hữu trạch sông Hương
Phía
nam giáp sông Nong.
Phía
tây giáp Dương Hòa, Lương Miêu.
Với một vùng đất đai rộng lớn, ngài Phủ Quân
đã nhượng đất cho ngài Nguyễn Đương, Lê Trại (đến sau ngài Ngô Thù gần 20 năm),
nhượng phần ruộng ở Bàu Phù Nam và Bàu Năng cho ngài Nguyễn Đà khai canh làng
Nong
Đất ở Thanh Thủy được phân chia cho con trai thứ
hai Ngô Lực. Ngài Ngô Lực trở thành Khai canh làng Thanh Thủy: “Thủy Tổ Khai canh Tòng
Quân Thị Thọ Đặc Tấn Phụ Quốc,Thượng Tướng Cẩm Y Vệ Chanh Dinh Chưởng Cơ Lực
Tài Hầu Ngô Quý Công”
Đất ở Lang Xá được phân cho con trai út Ngô
Điêu. Ngài Ngô Điêu trở thành khai canh làng Lang Xá: “Bản Thổ Tiền Khai Canh Ngô Viết Đại Lang”
Riêng phần ruộng đất ở làng Phù Bài thì giao
cho người con trưởng Ngô Tôi. Ngài Ngô Tôi trở thành Tiền Khai canh Ngô Đại Tôn của làng
Phù Bài :
“Trưởng nam
theo gót chân cha,
Thứ nam
Thanh Thủy và Lang Xá Bàu.”
Ngoài công lớn khai hoang lập làng, Ngài Ngô
Thù còn có công tìm mỏ khai quặng cung cấp cho triều đình, mỗi năm nộp 2000
khối quặng sắt (mỗi khối 25 cân). Có thể nói Phù Bài là địa danh luyện sắt đầu
tiên ở vùng Đằng Trong. Ngài Ngô Thù còn công tổ chức phòng chống giặc cướp và
thú dữ, bắt cọp dụ voi cung cấp cho triều đình và nhiều tài nguyên khác, đặc
biệt giống nếp thơm.
Do công lao, tài năng và đức độ, Ngài Ngô Thù
được triều đình ban nhiều sắc chỉ và phong thần.
Tước phong cao nhất của triều Hậu Lê là: Tiền khai khẩn Bản
thổ thành hoàng Ngô Quý công, gia tặng Đại tướng quân oai linh tôn thần
Chúa Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) ban lệnh bài:
Bản Thổ Thành
hoàng Đại tướng quân hiển ứng oai linh tôn thần.
Các triều Nguyễn đều có sắc phong: Dực Bảo Trung Hưng
Trung Đẳng Thần.
Ngài Ngô Phủ Quân có nhiều công lao với đất
nước và với làng Phù Bài, vì thế các triều nhà Nguyễn liệt ngài vào “Từ Điển Công Thần” với sắc phong “HỘ QUỐC TÝ DÂN”, do đó mỗi khi tế đàn Nam Giao tên
Ngài được ghi vào danh sách công thần trong bài văn tế. Trưởng Cả (Tự thừa) của
làng Phù Bài được mời tham dự có xe kiệu võng giá đưa rước như các vị công thần:
‘Thứ nhất
Phủ Doản Thừa Thiên,
Thứ nhì Hội
viên Đầm Dã
Thứ ba
trưởng cả Phú Bài’.
Như vậy, ba vị khai canh Ngô Đại tôn Phù Bài,
Ngô Thanh Thủy, Ngô Lang Xá đều là con của ngài Ngô Phủ Quân, vị Đại tướng công
thần dưới triều Nguyễn. Húy kỵ ngàì Bổn Thổ nhằm ngày
13.4 và 13.12 ÂL hàng năm
II.
SỰ NGHIỆP
Năm
1558 lúc theo cha vào Thuận Hóa, ngài Ngô Lực ( Ngô Minh Triết) khoảng 20 tuổi.
Tộc phả họ Ngô Lang Xá ghi: “Toàn
Gia đình ngài Bổn Thổ theo phò chúa Nguyễn Hoàng vào đất Thuận Hóa thì lúc đó
ngài Ngô Viết Điêu đã 17 tuổi”
Là con của một võ tướng thân tín đang giữ đồn
An Nong, một cứ điểm yết hầu của thủ phủ Thuận Hóa, ngài Ngô Lực đã là người
trong đội quân Cẩm y vệ - đội quân cấm vệ có trách nhiệm bảo vệ phủ Chúa (Chánh
dinh). Ngài Ngô Lực theo Nguyễn Hoàng Chống Mạc, lập dược nhiều chiến công. Ngài
được đặc cách tấn phong: Thượng tướng Cẩm Y Vệ Chánh dinh Chưởng cơ (tướng chỉ
huy quân Cấm vệ ở phủ Chúa), được mang tước Lực Tài Hầu.
Được cha giao trách nhiệm chiêu mộ dân binh
khai hoang lập làng, ngài Ngô Lực đã cùng 11 vị khai canh của các Họ: Lê Diên,
Lê Trọng, Lê Viết, Lê Đô, Nguyễn Diên, Nguyễn Thanh, Nguyễn Viết, Phùng , Phan,
Đặng, Trần, khai phá lập làng Ôn Tuyền thuộc huyện Tư Vinh. Sau đó đổi tên
thành làng Thanh Tuyền. Đến năm Cảnh Hưng nguyên niên ( Canh thân 1740 ) một bộ
phận con cháu các Họ tiếp tục khai hoang vùng đất cao giáp độn Sầm phát triển
thành Thanh Tuyền thượng.
Do có
công phò chúa Nguyễn và trung hưng nhà Lê, có công chiêu mộ dân binh lập làng, ngài
Ngô Lực được các triều nhà Nguyễn từ vua Minh Mạng đến Khải Định đều có sắc
phong :
“Khai canh Đặc Tấn
Phụ Quốc,Thượng Tướng Quân Cẩm Y Vệ Chánh Dinh Chưởng Cơ, Lực Tài Hầu Ngô Quý
công.Trước phong Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Tôn Thần. Gia tặng Đoan Túc Tôn
Thần”
Về
gia thất, ngài Minh Triết có một phu nhân, sinh tam lang và hai ái nữ: Vợ là Lực phu nhân quý nương, lấy
tước hiệu của chồng .
Các con :
Đệ nhất lang Ngô Bàng.
Đệ nhị
lang Ngô Khê
Đệ tam
lang Ngô Bạc
Hai ái nữ: Đệ
nhất Ngô quý nương
Đệ nhị Ngô
quý nương
Đến nay cháu, chắc của ngài Ngô Lực đã phát
triển đến thế thứ 20,21. Là một trong những Họ có con cháu nhiều nhất làng.
III KẾT LUẬN
Qua hàng ngàn năm phát triển, con cháu họ Ngô
Việt Nam
sinh sôi nảy nở thành nhiều hệ phái khác nhau, nhưng Tổ tiên Họ Ngô căn dặn:
“ Mấy Ngô cũng một Ngô”
“ Mười đời không rời cánh tay
Một giọt máu đào hơn ao
nước lã”
Như
vậy những người họ Ngô trên đất Việt đều có chung huyết thống, đều là bà con. Với
tinh thần đó, họ Ngô Việt Nam
có truyền thống tốt đẹp: Dù ở đâu những người cùng mang họ Ngô đều có tinh thần
gắn bó, thương mến giúp đỡ nhau.
Đặc
biệt tại nhà thờ họ Ngô còn ghi lại đôi câu đối để nhắc nhỡ muôn đời con cháu
mai sau :
“ Thủy Tổ công cao, Ngư
Động Sầm Sơn liên ngũ nhạc.
Khai canh đức trọng, Phù
Bài, Thanh Thủy, Xá tam lang.”
Dịch: Thủy
Tổ công cao, từ Động Ngư đến độn Sầm năm hòn núi nối tiếp.
Khai
canh đức trọng, Phù Bài,Thanh Thủy, Lang Xá là ba anh em ruột.
Ngoài
ra, con cháu họ Ngô cũng đã hình thành được truyền thống hiếu học: Dù giàu có
hay nghèo khó, mỗi gia đình đều quan tâm đầu tư cho con em mình được ăn học. Con
cháu họ Ngô Thanh Thủy cũng cảm nhận được sự hy sinh to lớn của cha mẹ, với
hoàn cảnh thiếu thốn, vừa học vừa lao động giúp đỡ gia đình, nhưng nhiều con
cháu họ Ngô đã học tập đạt kết quả tốt: Đạt nhiều giải cao trong các kỳ thi học
sinh giỏi quốc tế, quốc gia, đạt nhiều thành tích trong các kỳ tuyển sinh vào
Đại học.
Tự
hào là con cháu họ Ngô, mỗi chúng ta tỏ lòng biết công ơn Tổ tiên, hiếu kính
với dòng tộc, luôn giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp của Họ để
xứng đáng là con cháu của những vị võ tướng khai canh “Giúp nước phò dân” rạng
ngời trong sử sách.
Thủy
Dương, ngày 01 tháng 11 năm 2011
NGÔ VĂN PHỐ
Nguyên giáo viên Lịch Sử trường THPT
Hương Thủy
0 Comments:
Post a Comment