Tiểu sử chùa Đông Hải làng Thanh Thủy Thượng
Cảnh Hưng nguyên niên năm 1740 một bộ phận dân làng Thanh Tuyền tiến hành cuộc di dân lớn, có tổ chức lên vùng đất cao dưới chân Độn Sầm lập làng mới. Theo bia ký ở chùa Nam Sơn, năm Cảnh Hưng thứ hai 1741 dân làng Thanh Thủy Thượng đã định hình đất làng mới bằng việc xây dựng hai ngôi chùa: để xác định ranh giới về phía Đông , giáp với làng Dã Lê thượng có chùa Đông Hải. Phía Nam xây dựng chùa Nam Sơn. Đặt tên hai ngôi chùa mới xây dựng, tổ tiên làng TTT cũng gửi gắm mong ước về làng mới sẽ “phước như Đông Hải, thọ tỷ Nam Sơn”.
Lấy tên chùa Đông Hải, dân làng Thanh Thủy Thượng còn gửi một thông điệp về nét đẹp phong thủy và cảnh quang của vùng đất mới khai phá: Mảnh đất phía Đông, mặt trời càng lên cao cảnh sắc càng tươi mới, Biển giác thường sáng lạng, mây khai báo hiệu điều lành. Thể hiện ở hai câu đối ở chính điện:
東土遍莊嚴日放重新景色
海覺常燦爛雲開顯現祥光
Dịch Âm: Đông thổ biến trang nghiêm, nhật phóng trùng tân cảnh sắc;
Hải giác thường xán lạn, vân khai hiển hiện tường quang.
Dịch nghĩa: Mảnh đất phía đông đều nghiêm trang, mặt trời lên cao cảnh sắc mới;
Biển biết đều sáng rạng, mây mở hiển hiện điềm lành.
Đông Hải còn là nơi hội tụ để nghe pháp từ tiếng sư tử rống trong mưa, tiếng chim hót trong gió như ý nghĩa của đôi câu đối do Mộc tức hội chủ Phùng Hữu Chí hòa nam thượng dâng cúng:
東海會蓮臺鷲嶺遍聞獅吼雨
西天開寶殿祇園超感雉鳴風
沐息會主馮有志和南上供
Dịch Âm: Đông hải hội liên đài, Thứu lĩnh biến văn sư hống vũ;
Tây thiên khai bảo điện, Kỳ viên siêu cảm trĩ minh phong.
(Mộc tức hội chủ Phùng Hữu Chí hòa nam thượng cúng)
Dịch nghĩa: Bể đông hội đài sen, khắp núi Thứu đều nghe tiếng sư tử rống trong mưa;
Trời tây mở điện báu, vườn Kỳ siêu cảm tiếng chim trĩ hót trong gió.
Thời gian đầu mới khai lập chùa Đông Hải là một thảo am, sau một thời gian khi kinh tế phát triển hơn, dân làng đã dựng nhà rường thờ Phật. Để trông giữ chùa và hương đăng hàng ngày, làng đã cử một thủ tự. Những đêm rằm , mồng một, các đạo hữu ở ấp Bốn thường đến dâng hương lễ Phật có sự điều hành của một hội chủ.
Đến đời Thành Thái (1889-1907) năm Đinh Mùi 1907 làng xây dựng chùa với quy mô lớn:
東海寺
成泰丁未年造
Đông Hải tự
Thành Thái Đinh Mùi niên tạo
Sau khi xây dựng, điện thờ được các đạo hữu phụng cúng nhiều bức hoành, câu đối:
開方便 大師三界 遍莊嚴
Khai phương tiện Đại sư tam giới Biến trang nghiêm
Mở ra phương tiện Đại sư ba giới Tất cả đều trang nghiêm
道法麟往大會君臣仝一德
義扶漢鼎并收吳魏貫三分
Đạo pháp lân vãng, đại hội quân thần đồng nhất đức;
Nghĩa phù Hán đỉnh, tịnh thu Ngô Ngụy quán tam phân.
Đạo pháp xung quanh đều tới, vua tôi đại hồi đều cùng một đức;
Lấy nghĩa khuông phù vạc nhà Hán, gộp thu Ngô Ngụy bình dẹp sự chia ba.
成泰丁未年造東海寺
本邑官邑奉供
Chùa Đông Hải
(Xây dựng năm Đinh Mùi đời Thành Thái.
Quan bản ấp phụng cúng)
海會遍聞兜率有天成樂土
玄關大覺菩提隨地蔭慈雲
Hải hội biến văn, Đâu suất hữu thiên thành lạc thổ;
Huyền quan đại giác, Bồ đề tùy địa ấm từ vân.
Hội biển đều nghe, Đâu suất theo trời thành đất lạc;
Cửa huyền vi mở ra giác ngộ, Bồ đề theo đất phủ mây lành.
Hậu điện
洗劫塵心清水光回慧日
栽成福果岑山高捧慈雲
領兵阮改詳奉供
Tẩy kiếp trần tâm, thanh thủy quang hồi tuệ nhật;
Tài thành phúc quả, Sầm sơn cao bổng từ vân.
(Lãnh binh Nguyễn Cải Tường phụng cúng).
Rửa sạch lòng trần, nước trong quay lại với vẻ sáng của mặt trời trí tuệ;
Gây trồng nên quả phúc, đụn Sầm cao ôm mây lành.
(Lãnh binh Nguyễn Cải Tường phụng cúng).
德業信為天下法
尊親長是 世 人心
本隊正隊長率隊阮致祥奉供
Đức nghiệp tín vi thiên hạ pháp;
Tôn thân trường thị thế nhân tâm.
(Bản đội chính đội trưởng suất đội Nguyễn Cải Tường phụng cúng)
Nghiệp đức tin rằng đây là pháp của thiên hạ;
Tôn thân thích mãi là lòng người trong thế gian.
(Suất đội chính đội trưởng bản đội Nguyễn Cải Tường phụng cúng)
Chữ khắc trên đèn thờ
吉祥如意 吉祥如意
Pháp giới mông huân Cát tường như ý
Cõi pháp chịu công Tốt lành như ý
Đến tháng 03 năm 1927 Bảo Đại nhị niên chùa Đông Hải được trùng tu, xây dựng thêm trụ biểu. Mặt sau trụ biểu trước chùa ghi nhận lại sự kiện này:
保大二年三月重修寺宇
清水上甲第四共仰併息
Bảo Đại nhị niên tam nguyệt trùng tu tự vũ;
Thanh Thủy Thượng giáp đệ tứ cộng ngưỡng tịnh tức.
Tháng ba niên hiệu Bảo Đại thứ hai trùng tu ngôi chùa này;
Giáp thứ tư làng Thanh Thủy Thượng cũng ngẩng trông .
Hạ tuần đầu mùa thu năm Nhâm Tý 1912 đời vua Duy Tân, tăng ni cùng quan lại, dân làng ở ấp Bốn cùng nhau đóng góp đúc chuông bằng đồng nặng 171 cân. Những tư liệu này còn khắc trên chuông đồng còn lưu giữ đến ngày nay:
本邑官吏
丘尼仝鑄
Bản ấp quan lại khưu ni đồng chú
Quan lại ở bản ấp cùng tăng và ni góp đúc
清水社上
甲第四邑
Thanh Thủy xã thượng giáp đệ tứ ấp
Ấp thứ tư giáp trên xã Thanh Thủy
維新壬子
孟秋下浣
Duy Tân Nhâm Tý mạnh thu hạ hoán
Hạ tuần đầu mùa thu năm Nhâm Tý đời vua
Duy Tân
平重銅臺
百柒拾斤
Bình trọng đồng nhất bách thất thập cân
Chuông bằng đồng nặng 171 cân
Chùa Đông Hải được xây dựng mới quy mô hoành tráng, nhận thấy phải có người trách nhiệm để bảo quản và phát triển, Viên quan làng Thanh Thủy Thượng đã mời các thầy bán thế xuất gia đến làm thủ tự. Trước đây là thầy Đạm, hiện nay là thầy Xuân.
Thời kỳ thầy Xuân làm thủ tự, chùa Đông Hải có nhiều thay đổi, ngày càng khang trang. Hai thửa ruộng trước mặt chùa được bồi cao thành sân chùa với hàng trăm chậu cây cảnh, chủ yếu là mai vàng. Cổng Tam quan được xây mới vì cổng cũ xây dựng từ năm Kỷ Sửu đã bị xuống cấp.
Tóm lại, chùa Đông Hải là một di tích văn hóa nằm trong hệ thống danh lam thắng cảnh của làng Thanh Thủy Thượng cần bảo tồn và phát huy.
Nguyên Tri NGÔ VĂN PHỐ
0 Comments:
Post a Comment